Tây Conshohocken, Pa, Hoa Kỳ, ngày 29 tháng 3 năm 2012 - Thánh Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo Tây Tạng, người gắn bó lâu dài với nhiều khía cạnh khoa học và với những người vượt xa lên trên truyền thống tôn giáo của mình, đã khiến Ngài trở thành tiếng nói toàn cầu không thể so sánh về đạo đức phổ quát, bất bạo động và sự hòa hợp giữa các tôn giáo trên thế giới, đã giành được Giải thưởng Templeton năm 2012.
Trong nhiều thập kỷ qua, Tenzin Gyatso, 76 tuổi, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - dòng truyền thừa được các tín đồ tin rằng là hóa thân của một nhà lãnh đạo Phật giáo cổ đại, người là hiện thân của lòng từ bi - đã tập trung mạnh mẽ vào mối liên hệ giữa truyền thống nghiên cứu của khoa học và Phật giáo như một cách để hiểu tốt hơn và làm thăng hoa những gì mà cả hai lĩnh vực có thể cung cấp cho thế giới.
Cụ thể, Ngài khuyến khích đánh giá nghiên cứu khoa học nghiêm túc về sức mạnh của lòng từ bi và tiềm năng rộng lớn của nó trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản của thế giới - một chủ đề cốt lõi trong các bài giảng của Ngài và là nền tảng cho sự nổi tiếng vô hạn của Ngài.
Trong quá trình tìm kiếm đó, những "câu hỏi lớn" mà Ngài đặt ra - chẳng hạn như "Liệu lòng từ bi có thể được đào tạo hoặc dạy dỗ hay không?" - phản ánh sự quan tâm sâu sắc của người sáng lập Giải thưởng Templeton, cố John Templeton, trong việc tìm cách đưa các phương pháp khoa học vào việc nghiên cứu các yêu cầu về tâm linh; và do đó thúc đẩy sự tiến bộ tâm linh mà Giải thưởng đã công nhận trong 40 năm qua.
Thông báo đưa ra sáng nay được phát trực tuyến tại www.templetonprize.org, qua email cho các nhà báo, và trên Twitter qua @TempletonPrize bởi văn phòng Giải thưởng Templeton Prize của Tổ chức John Templeton Foundation ở Tây Conshohocken, Pennsylvania.
Giải thưởng sẽ được trao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trong một buổi lễ tại Nhà thờ St. Paul ở Luân Đôn vào chiều Thứ Hai, ngày 14 tháng 5. Một cuộc họp báo với Người đạt Giải thưởng 2012 sẽ diễn ra trước buổi lễ. Cả hai sự kiện sẽ được phát trực tiếp trên trang web tại www.templetonprize.org và trên các phương tiện truyền thông toàn cầu trên cơ sở tổng hợp. Hình ảnh từ các sự kiện cũng sẽ được tổng hợp lại.
Trị giá 1,1 triệu bảng Anh (khoảng 1,7 triệu đô la hoặc 1,3 triệu euro), giải thưởng là giải thưởng tiền tệ hàng năm lớn nhất thế giới được trao cho một cá nhân và tôn vinh một người đang còn sống đã có những đóng góp đặc biệt trong việc khẳng định khía cạnh tinh thần của cuộc sống.
Thông báo ca ngợi Đức Đạt Lai Lạt Ma về sự nghiệp cuộc đời của Ngài trong việc xây dựng những nhịp cầu tin cậy phù hợp với mong mỏi của vô số hàng triệu người trên toàn cầu, những người đã bị lôi cuốn bởi biểu tượng thu hút về lòng từ bi và sự hiểu biết đối với tất cả mọi người.
Tiến sĩ John M. Templeton, Jr., chủ tịch của Quỹ John Templeton và là con trai của người sáng lập giải thưởng đã quá cố, nói rằng: “Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đưa ra một tiếng nói từ bi phổ quát được củng cố bởi tình yêu thương và sự tôn trọng đối với sự nghiên cứu khoa học phù hợp về mặt tinh thần trọng tâm ở mỗi con người.”
Ông cũng lưu ý rằng thành tích đáng chú ý của Đức Đạt Lai Lạt Ma về những đổi mới trí tuệ, đạo đức và tinh thần đã được công nhận rõ ràng bởi chín Vị Giám khảo của Giải thưởng, những người đại diện cho nhiều lĩnh vực, nhiều nền văn hóa và nhiều truyền thống tôn giáo. Các giám khảo của Giải thưởng đánh giá - độc lập với nhau - thường có 15 đến 20 ứng cử viên được đề cử mỗi năm và sau đó gửi từng lá phiếu riêng lẻ - từ đó kiểm phiếu và sau đó xác định việc lựa chọn Người đoạt giải của mỗi năm.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đáp lại giải thưởng bằng phong cách khiêm tốn và điều đó đã trở thành biểu tượng của Ngài. “Hôm nay khi biết tin quý vị quyết định trao cho tôi giải thưởng khá nổi tiếng này, tôi thực sự cảm thấy đây là một dấu hiệu công nhận khác về sự phục vụ nhỏ bé của tôi đối với nhân loại, chủ yếu là tinh thần bất bạo động và sự đoàn kết giữa các truyền thống tôn giáo khác nhau,” Ngài phát biểu trong một video có tại www. Templetonprize.org.
Trong các video ngắn khác trên trang web của Giải thưởng, Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích chi tiết về các vấn đề chính bao gồm lời kêu gọi nhân loại hãy ấp ủ lòng từ bi như một con đường dẫn đến hòa bình, cả trên phương diện cá nhân và trên phạm vi toàn cầu. “Bạn có thể phát triển cảm giác quan tâm thực sự đến hạnh phúc của người khác, kể cả kẻ thù của bạn,” Ngài ấy đã nói như thế trong một video. “Loại lòng từ bi đó - không thiên vị, không giới hạn - cần được rèn luyện, cần được nhận thức.”
Mục sư Right Michael Colclough, Mục sư Canon tại Nhà thờ St. Paul, đã hoan nghênh sự kiện này: “Là tiếng nói bất bạo động của hòa bình và lý trí trong một thế giới đầy tai họa, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đại diện cho các giá trị cốt lõi được nhiều tín ngưỡng khác nhau trân trọng. Việc trao Giải thưởng Templeton cho Đức Đạt Lai Lạt Ma dưới mái vòm của Nhà thờ Thánh Paul sẽ là một lời nhắc nhở rằng làm việc hướng tới hòa bình và hòa hợp là một thách thức tinh thần và thực hành đối với tất cả các cộng đồng tín ngưỡng.”
Đức Đạt Lai Lạt Ma không còn xa lạ với những sự tôn vinh và tán thưởng, với những điểm số mang tên Ngài. Năm 1989, Ngài được trao giải Nobel Hòa bình về chủ trương bất bạo động là con đường giải phóng cho Tây Tạng. Ngài trở thành Người đoạt giải Templeton thứ hai cũng là người đã nhận được Giải Nobel Hòa bình; Mẹ Teresa nhận giải thưởng Templeton đầu tiên vào năm 1973, sáu năm trước khi bà đạt giải Nobel.
Cùng với những nỗ lực của Ngài nhằm đạt được hòa bình cho Tây Tạng, các chuyến công du sâu rộng của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thúc đẩy sự hiểu biết đa văn hóa với các tôn giáo khác và với các lĩnh vực đa dạng như vật lý thiên văn, cơ học lượng tử, sinh học thần kinh và khoa học hành vi.
Ngài thường lưu ý rằng, cam kết nghiêm ngặt của các Phật tử đối với việc đầu tư và suy ngẫm về thiền định cũng tuân theo các quy tắc nghiêm ngặt về điều tra, chứng minh và bằng chứng cần thiết của khoa học.
Trong số những nỗ lực thành công nhất của Ngài là Viện Tâm thức & Đời sống, được đồng thành lập vào năm 1987 nhằm tạo ra sự hợp tác nghiên cứu giữa khoa học và Phật giáo. Viện tổ chức các hội nghị về các chủ đề như khoa học chiêm nghiệm, cảm xúc tiêu cực và chữa lành, ý thức và cái chết. Trong khi ban đầu chỉ là những công việc học tập thầm lặng, chúng đã phát triển thành những sự kiện công cộng vô cùng nổi tiếng.
Vào năm 2005, sau một loạt các cuộc đối thoại tại Đại học Stanford giữa Đức Đạt Lai Lạt Ma, các nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học thần kinh, tâm lý học và y học, và các học giả chiêm nghiệm thiền định, trường đại học này đã trở thành ngôi nhà của Trung tâm Nghiên cứu và Giáo dục Từ bi và Vị tha. Nghị luận liên ngành đã công nhận rằng sự tương tác giữa khoa học nhận thức và truyền thống chiêm nghiệm thiền định của Phật giáo có thể góp phần vào sự hiểu biết về tâm thức và cảm xúc của con người. Trung tâm này hiện đang hỗ trợ và thực hiện các nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt về lòng từ bi và hành vi vị tha.
Nhiều trong số các hội nghị này đã đưa đến những cuốn sách bán chạy nhất được viết hoặc đồng sáng tác bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma, bao gồm “Nghệ thuật của Hạnh phúc" (1998), “Vũ trụ trong một Nguyên tử Duy nhất” (2005) và “Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Viện Công Nghệ” (2006). Tất cả đã nói, Ngài đã là tác giả hoặc đồng tác giả của hơn 70 cuốn sách.